Tuesday, October 2, 2012

Nhà thơ "ngục sĩ" Nguyễn Chí Thiện từ trần

image

Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi tiếng nhất của Việt Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7 giờ 17 phút sáng ngày 2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi.

image
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tác phẩm "Hoa Địa Ngục".

Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939 tại Hà Nội, học hành và sinh sống ở Hà Nội, Hà Nam, Hải phòng với song thân phụ mẫu và một người chị.
Ông từng bị chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội “phản tuyên truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào tháng 11 năm 1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977.  Ông viết lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.

image

Tháng 7-1979, ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông không đi tị nạn ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm 12 năm, với chế độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian bị giam cầm trước đó.
Tập thơ “Hoa địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư Patrick Honey (1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ biến trên báo chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản bằng Anh, Pháp, Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam.

Từ năm 1981 Tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp của ông.
Suốt thời gian đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt giam giữa rừng, kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.

image

Được anh ruột bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập “Hoa địa ngục” thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian cầm tù sau . GS Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản song ngữ. Ông viết tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii xuất bản trong “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”

image

Thi sĩ "ngục sĩ" Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn Quốc tế vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập truyện”. Tác phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường xuyên với những di chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi nhiều nơi để nói chuyện về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu và những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông, ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa.


Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tập thơ Hoa Địa Ngục...

image

Từ hơn 20 năm qua, tên tuổi Nguyễn Chí Thiện đã được công chúng biết đến như một nhà thơ của lao tù. Ông lấy chất liệu cho thơ từ những đoạn đời khổ ải, những mảnh đời tan nát, từ những ngày những tháng và những năm trong ngục tối, trong cùm kẹp, trong đói khát hận thù không phải chỉ của ông, mà của cả những bạn tù đồng cảnh ngộ. Ông tâm sự thế này về sự hình thành của thơ: 


image
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tại buổi ra mắt tập thơ Hoa Địa Ngục

Triu cuc đi kh oan,
Nát tan trăm ngàn mnh
Chp li mi hóa thành
My vn thơ ai oán


Nàng thơ của ông không yêu kiều diễm lệ, mà là “một nàng thơ khốn khổ, nhục nhằn,” đói khát, hèn mọn: 
Nàng thơ ca tôi khát thèm rau mung
Mng bát cơm đy, quý đói hay ma?


Nhưng chính cái đơn sơ, giản dị mà lại không tầm thường của thơ Nguyễn Chí Thiện đã khiến thơ ông đi thẳng vào tâm hồn người đọc và được độc giả khắp nơi đón nhận như một ngùơi thân. Không rào đón, không lễ nghi, không cần giới thiệu.
Trúơc khi tên Nguyễn Chí Thiện được biết đến, ngừơi Việt hải ngoại đã xúc động với một tập thơ không tên, không tác giả, được phổ biến dưới nhan đề được lấy từ một câu thơ trong tập, là “Tiếng Vọng từ đáy vực,” rồi “Chúc thư của một người Việt Nam.”

Lúc đó là tháng chín năm 1980. Mặc dù không biết tên tác giả, nhưng những tâm tình hực lửa lao tù đã nhanh chóng được chắp cánh bay khắp địa cầu nhờ sự tiếp tay phổ biến của các nhà báo, dịch giả, nhạc sĩ cũng như những người quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt nam mà tập thơ là một bản cáo trạng viết bằng máu và nước mắt.
Bốn năm sau, tập thơ mới mang tên đích thực của nó là Hoa Địa Ngục với tác giả đích thực là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư tiết lộ của giáo sư P.J. Honey ở Anh quốc, bởi chính Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội với bức thư ngắn mở đầu nguyên văn như sau: 


“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm công sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.”
Ngay sau khi đưa được tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội, tức là đã chắp cánh được cho tâm tình của mình đi xa, nhà thơ bị đưa thẳng vào xà lim vừa lúc vừa bước chân ra khỏi sứ quán. Chân bước vào tù nhưng lòng hân hoan mở hội, Nguyễn Chí Thiện đã tả lại tâm tình của mình như sau:

image

Những lời quý thính giả vừa nghe được chính nhà thơ đọc cuối tuần qua tại Virginia, nhân dịp Tổ hợp xuất bản miền đông Hoa kỳ tổ chức buổi ra mắt “Hoa địa Ngục toàn tập” gồm hơn 700 bài thơ, cùng nhiều hình ảnh và tư liệu quý giá của một con người lấy trái tim, khối óc, máu, mồ hôi và sự đau đớn của chính mình để kết tinh thành thơ. 



Buổi ra mắt còn nhằm trả lời cho một thắc mắc không biết xuất phát từ đâu, nhưng đã loan truyền trong dư luận đồng bào hải ngoại, như lời đại diện nhà xuất bản, nhà văn Trương Anh Thụy cho biết như sau:
Trả lời cho những thắc mắc ấy, ngoài những hình ảnh và tư liệu được trưng bày, nhà thơ còn tuyên bố sẵn sàng làm các cuộc xét nghiệm để chứng minh chính mình là người đã đưa tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội hồi tháng sáu năm 1980. 
Xét nghiệm là chuyện tương lai, không biết có cần làm hay không, nhưng trước mắt, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã chinh phục người nghe bằng chuyện thực xẩy ra trong những đoạn đời tù mà ông sử dụng như nguyên liệu thô để đưa vào thơ, và nhân thế giải thích ý nghĩa của những lời thơ có khi rất giản dị, nhưng mang trong nó những kinh nghiệm vô cùng đớn đau khắc nghiệt. 

Trước hết, ông cho biết lý do tại sao phải làm thơ. Thơ là phản ánh những kinh nghiệm đoạ đầy của tác giả, nên đau khổ chính là cái nôi của thơ. Và bởi nhà thơ coi thơ như một tiếng nói phản kháng, nên thơ của ông không cao siêu, cũng không thơ mộng. 
Nếu Phùng Quán từng sống trong đau khổ, và phải vịn câu thơ mà đứng dậy, thì Nguyễn Chí Thiện cũng nhờ thơ mà thóat được sự tuyệt vọng bởi, như một quy luật, khi sự tuyệt vọng đã được nói lên thành lời, thì nó đã thăng hoa để mang cứu rỗi cho chính ngừơi tuyệt vọng: 
Hơn 700 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện quả nhiên là tiếng gọi từ đáy vực, là hoa của địa ngục và là chúc thư của một con người Việt Nam đau khổ.



Tác giả 'Hoa địa ngục' - Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời

image

QUẬN CAM, CA 2-10 (NV) - Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục, vừa qua đời vào khoảng 8 giờ sáng Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012, tại một bệnh viện ở thành phố Santa Ana, quận Cam, California, thọ 73 tuổi.

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện vào bệnh viện vào sáng sớm ngày 26 Tháng Chín, 2012. Tại đây, bệnh viện điều trị chứng nhiễm trùng đường phổi nhưng ông vẫn thấy đau ởngực. Một số xét nghiệm cả về tim mạch, chụp phim và lấy mẫu phổi (biopsy) truy tìm ung thư cũng đã được thực hiện.

Tuy nhiên, cho đến sáng ngày Thứ Hai, 1 Tháng Mười 2012 thì bệnh trở nặng. Mười giờ sáng Thứ Hai, Linh Mục Cao Phương Kỷ đã làm các nghi thức cần thiết để ông trởthành một tín đồ Công Giáo theo ước nguyện trước sự chứng kiến của ông bà Bác Sĩ Trần Văn Cảo, Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Trang, bà Lâm Thiên Hương, nhà văn Trần Phong Vũ.

Người kề cận bên nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong phút lâm chung và cũng là người vuốt mắt cho ông là nhà văn Trần Phong Vũ.

image
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện (bên phải) gặp dịch giả Huỳnh Sanh Thông (bên trái) tại thành phố New Haven, Connecticut, hồi Tháng Tư 2005.

Ông Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1939 tại Hà Nội. Ông có một người anh là sĩ quan cao cấp VNCH đang ở sống ở tiểu bang Virginia, hai người chị ở Việt Nam.

Ông bị tù tổng cộng 27 năm qua nhiều nhà tù miền Bắc, đặc biệt là nhà tù nổi tiếng Cổng Trời. Lần ra khỏi tù sau cùng của ông là ngày 28 Tháng Mười 1991.

Khi ông chạy vào Tòa Ðại Sứ Anh Quốc ở Hà Nội đưa tập thơ và xin tị nạn chính trị, viên chức tòa đại sứ chỉ nhận tập thơ để chuyển ra ngoại quốc và cho biết họ không giúp ông tỵ nạn chính trị được. Bước ra khỏi trụ sở Tòa Ðại Sứ Anh thì ông bị công an CSVN bắt giữ liền.

Nhờ sự can thiệp đặc biệt của nhiều nhân vật quốc tế, ông đã được chế độ Hà Nội thả cho đi Mỹ định cư Tháng Giêng 1995.

Ông đã đem kinh nghiệm về chế độ Cộng Sản, kinh nghiệm tù đày trình bày với các cộng đồng người Việt khắp nơi từ Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Châu.

Tập thơ Hoa Ðịa Ngục đã được dịch ra Anh, Pháp, Ðức và Hòa Lan ngữ.

Sau khi đến Mỹ, năm 2001 ông cho xuất bản tập truyện Hỏa Lò. Tập truyện Hai Chuyện Tù được ông xuất bản năm 2008.

Ông Nguyễn Chí Thiện từng gặp cha Chính Vinh, cha Nguyễn Văn Lý trong nhà tù CSVN.

Nhân cách và cái chết của cha Chính Vinh tại nhà tù Cổng Trời (tỉnh Hà Giang) được nhiều người viết hồi ký kể lại trong đó có ông Kiều Duy Vĩnh. Ông Vĩnh là một trong rất ít người thoát chết trở về sau nhiều năm bị giam ở trại Cổng Trời, mới qua đời hồi Tháng Bảy vừa qua và cũng đã chịu các phép bí tích để trở thành tín đồ Công Giáo.

Những kỷ niệm cũng như nhân cách của cha Chính Vinh, Linh Mục Lý đã gây ấn tượng sâu sắc thúc đẩy nhà thơ Nguyễn Chí Thiện chọn đức tin Công Giáo và lấy tên thánh là Thomas More.

Tác giả Hoa Địa Ngục

Vào năm 1980, người ta thấy xuất hiện ở hải ngoại một tập thơ không có tên tác giả, xuất bản bởi “Ủy Ban Tranh Ðấu cho Tù Nhân Chính Trị tại Việt Nam”. Tập thơ mang tựa đề “Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực” mà tác giả là “Ngục sĩ” hay khuyết danh. Ít tuần lễsau, tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong đưa ra một ấn bản cùng một nội dung nhưng với tựa đề “Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam”.

Tựa đề tập thơ Hoa Ðịa Ngục có từ khi Yale Center for International & Area Studiesấn hành bản Anh ngữ Flowers From Hell do ông Huỳnh Sanh Thông dịch. Sau người ta mới biết tác giả tập thơ là Nguyễn Chí Thiện.

Những bài thơ của ông trong tập Hoa Ðịa Ngục gây xúc động sâu xa trong tâm thức người đọc về cái đói, sự đày đọa ác độc, sự gian ác của chế độ Cộng Sản đối với con người.

Tập thơ thoát ra khỏi Việt Nam khi nhà thơ lén lút mang tới Tòa Ðại Sứ Anh tại Hà Nội và được Giáo Sư Patrick J. Honey thuộc đại học London sang Việt Nam Tháng Bảy năm 1979 và mang về. Kèm trong tập thơ 400 trang viết tay này là lá thư mở đầu với lời ngỏ:

“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm cộng sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Ðó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.” (TN)



image


Hoa đa ngc tưới bng xương máu th
Trn m hôi chó nga, l ly tan 
Hoa trưởng sinh trong tù bnh, cơ hàn 
Hương m mc, mu nh nham, xám xt. 


image

Tôi nhm mt...

Tôi nhm mt nm yên không ng
Kng báo rn vang, sáng t bao gi
Tôi nm yên không nghĩ ngi không mơ
Mà lm chết trong bóng m rũ:
Bóng m cha già đn đau hóa m
Đêm ti mênh mông đóm la vt v
Bóng cuc đi tôi lng vng như t
Tht thu, bơ vơ, khóc cười l d
Bóng nht xám vài mi tình kh s
Lo đo đi v, tuyt vng âm u
Bóng hình tôi ho ra máu, lưng gù
M mt ra sng sng bóng tri tù! (1969)


S có mt ngày

S có mt ngày con người hôm nay
Vt súng, vt cùm, vt c, vt Đng
Đi li khăn tang, quay ngang vòng nng 
Oan khiên!
V vi miếu đường, m m, gia tiên
My chc năm tri bc bách lãng quên
Bao hn thù đc đa dy lên
Theo hương khói êm lan, tan v cao rng
Tt c b lùa qua cơn ác mng
K lc la, k bo lc xô chân
Sng sót v đây an nh phúc phn
Trong bui đoàn viên huynh đ tương thân
Đng bên nhau trên mt mát quây qun
K bùi ngùi hi hn.
K
bi hi kính cn
Đ
t vòng hoa tái ng lên m cha ông
Khai sáng k
nguyên tã trng thng cơ hng!
Ti
ếng sáo mc đng êm
Tình quê tha thi
ết ngân nga
Thay ti
ếng tiến quân ca
Và qu
c tế ca
Là ti
ếng sáo diu trên tri xanh bao la!


Thơ Ca Tôi 

Thơ ca tôi không phi là thơ 
Mà là tiếng cuc đi nc n 
Tiếng ca nhà giam ngòm đen khép m 
Tiếng khò khè hai lá phi hang sơ 
Tiếng đt vùi đ xung lp nim mơ 
Tiếng khai qut cuc đào lên ni nh 
Tiếng răng lnh đp vào nhau kh s 
Tiếng d dy đói l bóp bâng quơ 
Tiếng tim bun thoi thóp đp bơ vơ 
Tiếng bt lc trước muôn ngàn sp l 
Toàn tiếng ca cuc đi sng d 
Và chết thi cũng d, phi đâu thơ! (1970) 


Trong bóng đêm 

Trong bóng đêm đè nght
Phc sn mt mt tri
Trong đau kh không li
Phc sn toàn sm sét
Trong lp người đói rét
Phc sn nhng đoàn quân
Khi vn nước xoay vn
Tt c thành nguyên t. (1976) 


T Vượn Lên Người

T vượn lên người mt my triu năm
T người xung vượn mt bao năm?...
Xin mi thế gii ti thăm
Nhng tri tp trung núi rng sâu thm
Tù nhân trung tng bày đng tm...
Loi vượn này không nhanh mà rt chm
Khác vượn thi tin s xa xăm.
Chúng đói chúng gy như nhng cái tăm
Và làm ra ca ci quanh năm
Xin mi thế gii ti thăm. (1967)

Nếu tri còn 

Nếu tri còn đ có mt ngày mai.
Tôi s k chuyn đêm dài khng khiếp.
Cho thế h hin nay cùng đàn sau kế tiếp.
Git mình thc tnh, thương đau.
Phn n trào dâng, dc sc cùng nhau.
Đánh pht óc con rn hng đc hi.
Gii phóng c mt phn ba nhân loi.
B nó cun tròn sng trong ngc ngoi (1960). 


Nhm mt là...

Nhm mt là con nhìn thy ngay
M mt m run bước cnh thy
Căn gác âm thm ngao ngán quá
Hai bóng già nua ti li ngày.
Mơ v căn gác yêu thương y
Tan nát lòng con lm, m thy
Đau m, hao gy, đôi mt lóa
Đêm ngày trông đi đa con xa
Giam hãm trong rng cây vách đá
Con vn hình dung thy cnh nhà
L a hai hàng hoen ướt má
M khóc vì con mãi, m già!
Thy hi, con hình dung rõ quá!
Th thn vào ra, nét mt gy
Hình bóng muôn vàn đau xót y
Qun but lòng con ti đa đày! (1968) 


Tôi ly thơ 

Tôi ly thơ thu còn đi h
Bui gp nhau đu Thơ đã biết yêu tôi 
Thơ ca tôi thi y đp như Ki
Lng ly như Tn cung n 
Nhng cô Lý cô Hình cô S 
Tôi quên, tôi quá yêu r
Thơ thường bun, 
Thơ cũng như tôi 
Ch có bn bè là Mơ và Mng 
Thơ ly tôi vì tôi không th sng 
Không Thơ an i bên mình 
Đám cưới chúng tôi mt đám cưới tình 
Ch có Mng Mơ phù dâu phù r 
Thơ gi đã tay bng tay bế 
Tù lao đy đa xanh g
Thơ dn nhà ra khi cung mây 
T bui mng mơ hóa thành ngu xun! 
Đi chê Thơ nhiu bun đau, hn gi
Không chu bôi hng trát ph
Bán mình cho Đng nuôi thân 
Gn bó cùng tôi Thơ kh vô ng
Chia s bao su bao h
Thơ chu âm thm chung thy tn khi nao? 
--Tn khi nào 
Anh nói vi Thơ li di trá."  (1963) 


Tôi Tin Chc Mt Đi

Tôi tin chc mt đi
Mt điu tt yế
Là ngày mai mt tri s chiế
Tôi li nghĩ mt đi
Mt điu sâu th
Là đêm tàn Cng Sn ti tăm 
Có th kéo dài hàng my mươi năm 
Và như thế s bun lm l
Cho kiếp người sng chng bao lăm! (1969) 


Đau Đn L

Đau đn lm cái lm to thế k 
S sách ngàn đi còn mãi khc ghi! 
My chc năm tri xương máu đ đi 
Th hi dân đen thu được nhng gì? 
Ngoài mt s t la m k ngu si! 
Người công nhân trước gi cu li 
Người lính cũ nay gi là chiến sĩ 
Song vn vác, vn khuân, vn đói nghèo, vn b 
Đy đi chiến trường chết hoài, chết phí 
Cho mt lũ trung ương ln
Đau đn lm cái lm to thế k 
S sách ngàn đi còn mãi khc ghi! (1970) 


Lãnh T 

Lãnh t béo n
Dân đen gy rc! 
Lao đng hùng h
Hp hành liên t
Đói ăn khc ph
Kêu ca tng ngc! 
Cng sn đánh g
Đi mi hết nhc! (1962) 


Không có gì quý hơn đc lp t do 

"Không có gì quý hơn đc lp t do 
Tôi biết nó, thng nói câu nói đó 
Tôi biết nó, đng bào min Bc này biết nó 
Vic nó làm, ti nó phm ra sao. 
Nó đu tiên đem râu nó bn vào 
Hình xác lão Mao lông lá 
Bàn tay Nga đy băng tuyết giá 
Cũng nhoài qua lc đa Trung Hoa 
Không phi xoa đu mà túm tóc nó t xa 
Nó đng không yên, tt bt, điên đ
Lúc ri vào Tu, lúc rúc vào Nga 
Nó gi Tu Nga là cha anh nó 
Và tình nguyn làm con chó nh 
Xông xáo gi nhà gác ngõ cho cha anh 

Ôi đc lp t do! 
Xưa cũng ch vì quý hai th đó 
Đt Bc mc la mt vào tay nó 
Nhưng nay mà vn còn có người mơ h nghe nó 
Nó mi vn ln cn nguyn ra tht to" (1968) 


Hôm nay 19-5 

Hôm nay 19-5 
Tôi n
Toan làm thơ chi Bác 
Vn thơ mi hơi phang phác 
Thì tôi thôi 
Tôi nghĩ Bác 
Chính tr gia st rác 
Không đáng đ tôi 
Đ m hôi 
Làm thơ 
Dù là thơ chi Bác 
Đến thng Mác 
T sư Bác! 
Cũng chưa được tôi nguch ngoc vài câu! 
Thôi hơi đâu 
Mc thây bn văn sĩ cô đ
Vut râu, xoa đu, mơn trn Bác. 
Thế ri tôi đi làm vic khác. K cha Bác!" (1964)


Khi M ch

Khi M chy b min Nam cho Cng s
Sc mnh toàn cu nhc nhã kêu than 
Gia tù lao, bnh hon, cơ hàn 
Thơ vn bn, và tha dư sc đn! 
Vì thơ biết mt ngày mai xa xôi nhưng sáng l
Không giành cho thế lc yêu gian 
Tuyt vng du lan tràn 
Hy vng du tiêu tan 
Dân nước du đêm dài ai oán 
Thơ vn đó, vn gông cùm trên ván 
Âm thm, thâm tím, kiên gan 
Biến trái tim thành "chiếu yêu kính" giúp nhân gian 
Nhn rõ nguyên hình Cng s
Tt c suy tàn, sc thơ vô h
Thng không gian mà thng c thi gian 
St thép quân thù năm tháng r han!  (1975) 


u trĩ 

u trĩ, th ơ, u ti, 
Vì mun an thân, vì tiếc máu xương... 
C nhng k đã nm trong m 
Và nhng bào thai trong bng m trót sinh ra 
Chúng s có quyn nguyn ra lũ ông cha 
Đã đ chúng sa xung hm tai v
Li lm ti ai? Xét ra tt c
My ai người đem hết tâm can... 
Ai đng dy dit tr lũ qu
Ai trái tim lân mn vn dân tàn? (1975)


Nếu có tr

Nếu có tri, đi tôi phi khác 
Đâu b đói nghèo, tù lao tan tác! 
Vì tôi chưa làm vic gì đc ác 
Và luôn sng vi tâm tình cht phác 
Dù toàn gp nhng điu bi b
Và lòng bun như đêm sa mc! (1960)


Không có ch 

Không có ch trên con tàu qu đ
Tôi là người hành khách bơ vơ 
L chuyến, lm ga, mt cp, bây gi 
Tôi rũ trên sàn toa lnh ng
Cái toa đen dành cho súc vt (1967)


Tôi kh gp trăm l

Tôi kh gp trăm ln hơn Đi Thánh 
Mang trên đu đ th mũ kim cô 
Thn chú đau thương: "Tt c tan tành!". 
Khoan vào óc đêm ngày muôn vn l
Đi tôi gia Ngũ Hành Sơn cm c 
Không mong Đường Tam Tng ti buông tha 
T mình tôi, tôi phi cu tôi ra 
Đp tan hết đ xoay vn mnh s
Hoa qu sơn trong cõi lòng nát đ 
Là mt ngun an i ln bao la 
Vi T Thiên đó ch là đt t 
Vi tôi là tri mng ước cao xa! (1969)


Mt tay em tr 

Mt tay em tr: Đi xua đui! 
Mt tay em tr: Hn vô b
Thế gii ơi! người có th ng
Đó là mt tù nhân tám tui! 
Trên bước đường tù, tôi rong ru
Tôi gp hàng ngàn em bé như em! (1971)


Tôi, mt k 

Tôi, mt k không gia đình, bè bn
Sng mt mình, bnh hon xanh xao
Chai nước con, chiếc điếu hút thuc lào
Chiếc giường vi, chiếc bàn bng g
Đ đc tôi thế là tm đ
Cuc sng nghèo hèn, không ước không mơ
Ngoài thi gian dy hc vài gi
Tôi tìm kiếm nim khuây trong sách v
Ít ra khi căn bung con tôi
Ch nht, ngày thường tôi thy như nhau
Nhng khi bun tôi đem điếu ra lau
Hoc khe kh ngâm mt vài câu thơ c
Mi tháng mt ln tôi mang phiếu s
Tiêu chun tht, đường mt lng mua ăn
Trong lòng tôi ch mt ni băn khoăn
S b bt, b nghi là bt mãn." (1966) 


Trên mnh đ

Trên mnh đt, Đng gieo mm ti li! 
Trong lành cũng phi tanh hôi! 
Tr con chưa nt mt đã tù ri! 
Bo lc đi v rt vi! 
Chết trn, chết tù, hi ơi xã hi! 
Biết bao là v góa, con côi, 
Bán trôn ri li bán c m hôi, 
Mà đói rét vn qun cho sm ti! 
Mnh đt ch trông và sám h
Thc gi tiêu su chai nước lã đun sôi! (1964)


Có phi em là 

Có phi em là em bé? 
B tp trung xa cách đã mười năm? 
B dượng em là bác da ngăm ngăm, 
Là đng chí bí thư nơi m em công tác? 
- Anh là bn tù ca b em, t tnh khác 
V tìm em đ nhn h tin... 
B em gi đau m cn xin 
Ít ký ninh, ít đường đen bi dưỡng! 
B dn m hãy an lòng, đng ngượng 
B hiu cnh tình rt thương m và em 
Hãy nín đi em đng khóc! 
B sp v ri, b s cho em đi hc, 
Mua cho em đôi dép em đi... 
Em s được là thiếu nhi quàng khăn đ 
Là cháu ngoan bác H em có thích không? 
--Có thích (1976) 


Nhng thiếu nhi 

Nhng thiếu nhi đin hình chế đ 
Thu mi đi tù trông tht ng
Lon xon không phi mc qu
Chiếc áo tù dài ph kín chân 
Gi thm thoát mười xuân đã l
Mt mũi vêu vao, tính tình hung tn! 
M ming là chi bi chng t ai! 
Có th giết người vì c sn c khoai! (1966) 


Bác H ri l

Bác H ri li Bác Tôn! 
C hai đu thích ôm hôn nhi đng 
Nước da hai bác màu hng 
Nước da các cháu nhi đng màu xanh 
Gia hai cái mt bành bành 
Nhng khăn quàng đ bay quanh c cò! (1970)


Đng ly

Ngày y, tuy xa mà như còn đ
Tui hai mươi, tui bước vào đ
Hn lng cao, gió thi chơi vơ
Bn phía bao la ch th
Chân mây, rng mi tuyt vi! 
Ngt ngây, làm sao ng t
Bùn đng h ao mn dưới phc ch
Tui hai mươi, tui ca không ng 
Không s
Vin vông đp ta bài thơ 
Mơ ướ
Đi ch 
Vĩ đi... 

Nhưng ri mt sm đu thu mùa thu tr l
Tui hai mươi mt nhìn đi tr d
Ng c sao rc r 
Tô thm màu x s yêu thương. 
Có ng đâu giáo gi đã lên đường 
Hung bo phá b kim c 
Tiếng mi giường rung đ chuyn non sông 
Mt tri s sng 
Th ra tng vũng máu hng 
Ôi tiếc thương bao mùa lúa vun trng 
Mt mùa thu nước lũ 
Tr thành bùn nước mênh mông 
Lp lp sóng hng man d
Chìm trôi quá kh tương lai 
Máu, l, m hôi, rt rãi 
Đi v ai nhn ra ai! 
Khiếp s, sng s, tê di! 
Lch s quay tít vòng ngược l
Thi hùm beo rn rết công khai 
Ngàn vn đu trường mc dy gia ban mai 
Đúng lúc đt tri nht nh
Bn giết người gio ho
Nâng cc mng thng li liên hoan 
Điu nhc cơ hàn thăm thm miên man 
Đip khúc lìa tan thúc gi
Ngc tù ct bước oan khiên 
Thành th thôn quê sơn hi trăm mi
Hi t
Bãi sú, b lau, rng rú 
Thây người vun bón nuôi cây, 
Đo lý ti cao x đng l
Là la thy, phn b
Và tuyt đi trung thành vô h
Vi Đng, vi Đoàn, vi lãnh t thiêng liêng 
Ht thóc, ht ngô phút hóa xích xing 
Ha, phúc toàn quyn ca Đng 
Dn dà năm tháng 
Mt ng sc vàng, da sc xám 
Đi v ai nhn ra ai? 
Ôi ngàn hoa run tái! 
Đáng thương gia chn đng l
Sy úa lau gy, lc loài thm h
Ri đây, khi mt tri thc d
Chc là hoa đã tàn phai 
Chng còn được thy! 
Tôi vn ngi yên mơ màng như v
Mc cho đàn mui quy r
Bóng ti lan đy khp l
Không còn phân bit n
Trâu hay người ln li phía b xa 
Gai c ni trên da 
Cái ha áo cơm không cha ai hết! 
Bun nghĩ ti chuyn xưa Thn chế
Cùng lão tiu đn ci già nua 
Tôi ngước trông xem có mt ngôi chùa 
Ngôi chùa đã tr thành huyn mng. 
Con ác điu hoài nghi xù đôi cánh rng 
Truy lùng m m cha ông 
Thánh tht miếu đường xáo đng 
Con thuyn ch đo nghiêng chao 
Sóng gió thét gào, man r 
Tiếng sinh linh nc n, âm th
Mt đt tím bm, tiết đng 
Lá c lt lng 
Nhân bui dương tàn âm thnh cao bay! 
Thn tượng cung quay, hình thay lt rũ 
Hang Pc-Bó hoá thành hang ác thú 
Bác H già hóa dng bác H Ly 
Đôi dép lp nng bng trăm đôi dép s
B ka-ki vàng, vàng như mt dân đen 
Qy quái, đê hèn, la đo! 
Gia tài tra kho cướp trơn tay 
T bui Qy vương hn h mt mày 
Đng trước Đng kỳ trnh trng 
Đc li khai mc tha hoang sơ 
T tp đng viên đi hi dưới c 
Nguyn đem cuc đi hơi th 
Đp bng, phá v 
Ngàn năm văn hiến ông cha. 
o vng dng lên mt th sơn hà 
Mê mui, nng n không h nghiêng ng 
Nó lùa, nó th 
Lũ mt người d thú xông ra 
Khiến đng xa 
Nơi mp mô m m 
Các hn ma cũng h vong linh 
Vì thy đa ngc ca mình 
Còn ít nhc hình hơn dương thế
Mng sng không bng con giun con dế 
Đu ngng lên tuy nhìn thy tri xanh 
Mà chân không th nào rút kh
Vũng ly man mi hôi tanh 
Ma qy rình canh, nghit ngã 
Rau cháo cm hơi, m hôi tm tã 
Bn sy lau đã chán c ch trông 
Hu cam phn sng trong bùn xám 
Đi càng u ám 
Qy vương càng đình đám liên h
Ôi, dn dà tôi không phi là tôi 
Mt khi rũ mòn nhc nh
Mang đy mng ước thiu ôi. 
Nếu tôi đ m hôi 
M hôi s hòa máu ph
Nhưng nhng niêu cơm quá vơi mà Đng đem phân ph
Không nhường tht gân mt ch đ đàn hi! 
Bao đêm ri tôi nguyn luyn hn tôi 
Trút b bun đau tiếc h
Nén dp hn căm d d
Ngày đêm dìm luc thân tôi 
Nhão nh, nóng hi! 
Nhưng làm sao trút và nén n
Nhưng làm sao điếc, mù, câm n
Khi con người chưa sng được bao nhiêu 
Cũng như khi chưa yêu mến tht nhi
Làm sao biết ghét! 

Ch qu bóng xì hơi đã b
Mi đ cho Người - Đnh mnh - dm lên trên 
Còn nhng đi dương sóng dy vang r
Ch du lng khi mt vì bão táp! 
Tôi ngi yên nghe thi gian chm ch
Mang tâm hn thm hết cnh trăng xuông 
Trên đng không nước li sương buông 
Cây c lnh m, hoang vng 
Ôi nhng b xa, li xanh nhc nng 
Nếu có k cho đi là cay đng 
Hãy vào đây nếm th v đng l
Cho d dy, óc, tim, lưỡi, c 
Biết bit phân tân kh ngt bùi! 
Gia bin vui không hiu tiếng cườ
Là nhng k cuc đi chưa dy sóng 
Tri cao bin rng có cũng như không! 
Mt tiếng qu đêm o não r xung đng 
Tôi tnh hn, tr v cơn ác mng 
Mui nhơn nhơn tng đàn vang tiếng đng 
Nhng con cưng ca ngng đng ti tăm 
Chúng trưởng sinh trong đêm ti nhiu năm 
Nên chúng tưởng màn đen là ánh sáng! 
ch nhái vn đng thanh đu cáng 
Chi bi mt tri, ca ngi đêm đen 
Lũ sy lau còm cõi đng chen 
Hơi có gió là cúi đu rp hế
Bát ngát xung quanh mt mu khô chế
Đng ly mi m
Lng câm, lũ kiến đi v 
Ôi, cuc đi hay mt cơn mê 
Mà người, nga, trâu, bò ging nhau đến thế
Nhng chiếc sơ mi b ngoài đ che bng ph 
Đi v chm ch xe "dim" 

Lúc vut xoa 
Lúc hăm d
Lúc gt gù 
Vi mt lũ lù lù rác rơm m m
Nhng loài tho m
Ngu ngc, ù lì, nhn nh
Nm đi ngày tàn mc thi tha 
Mc cuc kêu thê thm đêm ngày 
Xác gy, kh não! 
Bn g đó phi ch giông bão 
Mi chu ào ào nh r đng lên 
Nhưng hình như Tri đã b quên 
Mnh đt đng ly xám ng
Như tôi vn ngi đây héo h
Mt thâm qung trông ngóng tri xanh 
Bn chung quanh ếch nhái vn đng thanh 
La ó mong làm hng tim hư óc. 
Đ trai tráng say mùi chết chóc 
Đ người già yên vui tang tóc 
Tóm li là đ tình nguyn ly tan 
Nhưng mt tri mùa thu mà như tiết đi hàn 
Súng ng tng đoàn run run, nhn nhác 
Đng lùa đi tan tác thương vong 
Mái ngói, mái gianh l thm ròng ròng 
Nh xung bc hơi trong lòng vc bng 
Đng d thét gào, hóc xương ngang hng 
Ging thu thào, gượng go hung hăng 
Lưới thép nn chuyên chính tung quăng 
Khc lit, by xng, c oan, cay đng 
Dân đen tay trng cam đành 
T rng núi hoang vu ti ph xá th thành 
T hi đo xa xôi ti rung đng bát ngát 
Màu áo vàng cnh sát 
Tràn lan, nht nht c màu xanh 
Cuc sng đng ly rp rát, nhoét tanh 
Bom đn chiến tranh còn git giành chút xương da thm h
Cái cnh mười đi, hai ba tr l
Cái cnh mt trai giành nhau chín gái 
Đương din ra và s còn din mãi 
Nếu Đng còn nm vn mng tương lai. 
Lũ sy lau xưa ch biết th dài 
Cũng phi ngước trông đt tri, vn hi? 
Trăng ln... sao tàn... 
Bình minh không mong m
T t xut hin trong sương 
Mt bình minh héo ht thm thương 
Đy dân tc trên giường xung đ
Hãy lng nghe mt điu chân tht! 
Bình minh đây đau kh nht đa c
Nó báo hiu mt ngày không mt phút 
Thnh thơi, thoi mái, ngng đu. 
Bình minh đy muôn tha mt m
Nó báo hiu m hôi kit qu 
Nhng con người, không, nhng chiếc máy thm thê 
Không du, không m 
Hng v trước thi gian 
Hãy coi chng phi gi v hân hoan 
Tiếng khóc, tiếng than làm yêu ma run s 
Ti chúng phm vô cùng man r 
L ra, ai đ chúng sinh tn? 
Nên lo âu, ht hong, bn ch
Chúng nghe ngóng, b tù tiếng nói 
Hi tt c nhng chân tri sáng chói! 
Hãy hiu rng yên lng nơi đây 
Gia chn đng l
Là tiếng gi lâm ly đy tuyt vng 
Biết bao gi mùa thu lt lng 
B lôi lên dàn la tri hè! 
Tôi vn ch trông muôn vn tiếng ve 
Do khúc tưng bng báo trướ
Mùa hè khp nơi đang tiến bướ
Tiêu dit thu đông 
Ly li sc hng 
Phá cũi s lng cho đàn chim bt hnh 
Nhưng gi đây thu lnh 
Vn tha sc tung hoành 
Giết hi màu xanh 
Sc sa mùi tanh 
Nó dùng máu hãm nhng hàng nước m
Vt nhng git m hôi 
Bt tiếng người câm b
Mong bn phương lng ngt gia cơ hàn! 
Đ nó t do vang do khúc đàn 
Yêu ma! 
La bp người xa 
But óc người g
Tri đt ơi, nếu có qy th
Qy thn sao dung tha mãi nõ 
Đôi lúc nghe mơ h trong gió 
Tiếng đi qua sóng đ vng v đây 
Bao ước mơ chìm chết đã lâu ngày 
Li nghn ngào tri d
Đau xót, thương tâm. 
Bên ngoài kia cuc sng vang
Sao đây mãi âm thm trong nm m.? 
Phn n on lên, bao kh
Không gian hi, hãy tan tành sp đ 
Cho thi gian đng làm kh con ngườ
Cho đười ươi, kh đt hết reo cườ
Trong ti đen đy đ
Ôi, cái bui đt tri giáng h
Cũng là ngày h h trái tim đau! 
Nhưng gió k làm gì chuyn bn b năm châu 
Chuyn nhng chân tri by lâu yêu d
Tuyết m rơi, lòng người đôn h
Đo thn ngi sáng ngc châu. 
Gió hãy thương k b đóng trên ta đ thm s
Gic chân tri mòn mi thương đau 
Bn phía trước sau toàn bóng 
Nhng người trâu dm mình trong bùn đng 
Hoc trong hm trong xưởng rũa gân xương 
Đ ti v theo lnh Diêm Vương 
Vác bng đói ti nghe by qy d 
Gi danh nghĩa là nhng vì thiên x 
Đt chương trình hút máu mài xương 
Nhưng ly tên xây dng thiên đường 
Đ mong m thêm nhiu nô l mi. 
Tôi không hiu loài nh ương ca ng
Cái thiên đường khng khiếp ca ma yêu 
Được chúng cho công xá bao nhiêu 
Mà đêm ti to mm, đinh nhc óc 
y cơm cá ma vương đy xương hóc 
Hãy coi chng ko nut khó trôi qua 
C ca đi, hơi lc điu bài ca 
Là Đng ném toàn gia vào ha ngc! 
Tháng năm trôi mùa thu ô nh
Vn kéo dài ngang na dãy Trường Sơn. 
Chúng tôi tuy chìm ngp gia bùn trơ
Song sc sng con người hơn tt c 
Trước sau s vùng lên qut ngã 
Lũ qy yêu xung tn đáy đng l
Huyt chôn vùi thu nhc nhã là đây 
Hè xuân s huy hoàng đng d
Dù chúng tôi hm hiu không được th
Màu hè xuân thì đi ca chúng tôi 
Cũng làm cho nhân loi đ m hôi 
Khi tưởng ti bóng c ma đ i! 
Mt tri lên cao, lòng tôi nhc nh
Mun ct ngay cái phn hôi th
Trên thân mình dng dc ca thi gian 
Nhưng ni tiếng lì gan 
Thi gian thn nhiên t khướ
Tháng năm lng n lê bướ
Xót xa, ô nhc, đa đy. 
Tôi mun kêu to trong câm lng đen dày 
Cho nhân loi trăm min nghe th
t đ v đây 
Lp h đng l
Dit by mui đ
Ngày đêm phá hy hng c
Nhưng gia bùn sâu ngp c ngp đ
Tiếng kêu cu khò khè trong cung hng! 
Trong khi y nhng li lt lng 
Ca muôn ngàn ếch nhái vn vang ngân 
Bp bm xa g
Năm châu bn b 
Tôi biết thế, nên càng không th đ 
Cho thi gian trì tr nhc tôi lên 
Tôi xiết rên, qun qui, t tìm đường 
Dù có phi bi thường bng xương th
Tôi không th an tâm nm hít 
Mùi bùn đen tanh tưởi khiếp kinh 
Bn chung quanh yêu qy np canh rình 
Súng ng sn sàng nh đ
Con người tôi tiêu điu nt r
Có s gì viên đn oan khiên 
Gii thoát bao đau kh trin miên 
Hn tôi ti tri quên bay bng 
Màn thép kia dù không l hng 
Tôi s dùng răng cn đt mt khâu 
Dù qy yêu bt được qung vc d
Tôi vn s lao đu không hi h
Dưới bùn sâu, người trâu ln đ
Đui bt mt tri theo lnh ma vương 
Lũ tiu yêu ngang dc đy đường 
Đc thúc, nghe rình li than tiếng th 
Thng này, sao mt mày không hn hO 
Thng kia, sao dám th dài? 
Lũ chúng bay phi làm vic bng hai 
Đ qy chúa mng sng dai trăm tu
Gia thi gian muôn người đương chết đu
Lòng cu sao nhanh chóng khp đa c
Đng đu lên, ti đánh toang đ
Con rn đ vô cùng hung hi
Nó sinh ra ln lên nh xúc si
Nh nc hn thù, ph phnh công phu 
Khéo léo đu cơ lòng yêu nước đui mù 
Ly lc Tu Nga không n điếm nh
Đ hơi sc nó hin hình phn phúc 
Ngóc đu, phì rít, bt nhân 
Cn c lê dân, quăng qut m ph
Phá đo, phá đi, ung khô sông sui! 
Ôi thng Tây mà trước kia người dân không tiếc
máu xương đánh đu
Nay h xót xa luyến tiếc vô chng 
Nh vut nanh ca lũ thú rng 
Mà bàn tay tên cai tr thc dân hóa ra êm
Lòng ái quc b la còn đương nm bun bã 
Đng gian ma mong kiếm chác thêm gì 
Bay tha h vin ti Lý, Trn, Lê 
Người dân đã chán chê vi cái trò h chiến tranh
cách mng 
Cái h được là khăn tang và nng 
Cái mt đi ánh sáng cuc đ
Đng bt câm, bt nói, bt khóc, bt cườ
Bt đói, bt làm, hé răng oán thán 
Là tù ngc mc xương đc đoán 
Phi chăng đó giá công lao huyết hãn 
My ngàn ngày đánh Pháp nhng năm xưa? 
Biết là bao ô uế, lc l
Người dân đã có tha kinh nghi
Bùa phép yêu ma không còn linh nghi
Bo lc đen ngòm trng nhn nhe nanh 
Tri lính, tri tù xây lũy thép vây quanh 
Song bo lc cũng đành bt l
Trước s chán chường tt bc ca nhân tâm! 
Có nhng con người gi đui điếc thm câm 
Song rt thính và nhìn xa rt t
Đã thy rõ ngày đng ly mai m
Con rn hng dù lt xác cũng không 
Thoát khi lưới Tri lng lng mênh mông! 
L cùng thông huyn bí vô chng 
Gi phút lâm chung qy yêu làm sao ng ni! 
Ri đây 
Khi đt tri gió n
Tàn hung ơi, bão la, trn vào đâu? Bám vào đâu? 
Lũ chúng bay dù cho có điên đ
Lo âu, phòng b 
Bàn bc cùng nhau 
Chính đám sy lau 
S thiêu tt lũ bay thành tro xám! 
Hc thuyết Mác, mt linh hn u ám 
Không gc r gì trên mnh đt ông cha 
My chc năm phá nước, phá nhà 
Đã ti lúc tông đ phi lôi ra pháp trường tt c
Song bay vn tic tùng nht d 
Tưởng loài cây to khe cht đi r
Không gì nghi ngi na! 
Bay có hay sy lau gp l
Còn bùng to hơn c đ, đa 
Nhng con người ch có xương da 
Sc bt lt nhào, tung hết! 

Hoa cuc sng Đng xéo dày, mong nát chế
Nhưng mà không, sông núi vn lưu hương 
Mi b tre, góc ph, vn no đường 
Hương yêu du còn thm vương thm thiế
Nếu tt c nhng tâm hn rên siế
Không cúi đu cam chu sng đau thương 
Nếu chúng ta quyết đnh mt con đường 
Con đường máu, con đường gii thoát 
Dù có phi xương tan tht nát 
Trong la thiêng trng pht bn gian ma 
Dù chết chưa trông thy n mùa hoa 
Thì cũng sng cuc đi không nhc nhã 
Thì cũng sng cuc đi oanh lit đã! 
Nếu chúng ta đng tâm tt c 
Ly máu đào tươi thm tưới cho hoa 
Máu ươm hoa, hoa máu chan hòa 
Hoa s n muôn nhà muôn vn đóa 
Hoa hnh phúc t do vô giá, 
Máu căm hn phun đm mi đâm bông! 
Đt nước sa vào trong mt hm chông 
Không phi mt ngày thoát ra được đó 
Con thuyn ra khơi phi ch lng gió 
Phá xích, phá xing phi sc búa đao 
Còn chúng ta phi ly xác làm bè 
Ly máu trút ra to thành sóng nướ
Mi mong ni lên vùng ly tàn ngượ
Nm ly cây sào cu nn trên cao 
Tiếp súng, tiếp gươm bè bn vin vào 
Phá núi, vén mây, đón chào bão lng 
Mi có th tiến vào hang đng 
Tiêu dit yêu ma, thu li đt tr
Thu li màu xanh, ánh sáng, cuc đi. 
Chuyn lâu dài, s sng ngn, chao ơi! 
Ni ch mong thm thiết mãi trong tôi. 
Tôi mong mãi mt tiếng gì như bin m vang d
Mt tiếng gì sôi ni con tim 
Đã bao năm ri teo chết nm im 
Trong nhng quan tài hình hài hèn đ
Âm tiếng đó di lan qua các tri tù, tri tp trung
rùng r
Làm suy nghĩ lũ quân thù trâu l
Tái to nim tin cho tt c nhng ai 
Đã gn như tuyt vng ngày mai 
Lũ lau gy, sy úa, c tàn phai 
Náo nc, reo hò, trông ngó 
Âm tiếng đó gây thành giông gió 
Khp đi dương cùng kh âm u 
Chp xé tri đen, báo hiu lũ quân thù 
Gi hy th
Tôi mong mãi mt tiếng gì như tiếng m vang ca b

Đng bào tôi cũng mong như thế 
Tôi lng nghe 
Hình như tiếng đó đã bt đ
Nhưng tôi hiu rng đó là tiếng ca lch s dài lâu. 
Nên tri đêm dù thăm thm ngòm sâu 
Dường như vô gii hn trên đu, 
Tôi vn nguyn c
Vn sng, và tin 
Bình minh ti, bình minh s ti. 
C vô đo đương ngang tri php ph
Tôi vn mơ chân lý tn xa v
Tôi lùa tan ngàn vc ti trên đ
Trong hào quang d di hin linh! 
Muôn m m chn đng tri thinh 
Báo hiu bình minh sét n 
Ôi, ghê s c mt tri phn n 
C mt tri đau kh khôn lường 
Đã bao ngày nén xung thm thương 
Dưới tn đáy đng ly ti h 
S tràn dâng như sóng gm thác đ 
Bn qy yêu s ti ngày tn s 
Xác lũ bay s ngp đường ngp ph 
Máu lũ bay hoen c nn tr
Kèn t do đc thng nơi nơ
Khai mc bình minh khôi phc cuc đi. 
Ôi tôi sng và tôi ch đ
Ngày triu triu trái tim bùng n tung tri! 
Đêm đng ly lõm bõm sương rơ
Cú rúc, Trăng bu
Rười rượi.... (1972)


No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.